Trang chủ Bệnh thường gặp Hội chứng rối loạn lưỡng cực: Triệu chứng chẩn đoán và điều...

Hội chứng rối loạn lưỡng cực: Triệu chứng chẩn đoán và điều trị

Hội chứng rối loạn lưỡng cực được đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm, có thể thay đổi lẫn nhau, mặc dù nhiều bệnh nhân thường có ưu thế một cực này hơn cực kia. Không rõ nguyên nhân chính xác, nhưng di truyền, thay đổi mức độ chất dẫn truyền thần kinh trong não, và các yếu tố tâm lý xã hội có thể liên quan đến. Chẩn đoán dựa trên tiền sử. Điều trị bao gồm thuốc chỉnh khí sắc, đôi khi với liệu pháp tâm lý.

Hội chứng rối loạn lưỡng cực là gì?

Rối loạn lưỡng cực thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, 20, hoặc 30. Tỷ lệ hiện hành suốt đời là khoảng 4%. Tỷ lệ rối loạn lưỡng cực I là tương đương giữa nam và nữ.

Có thể bạn quan tâm:

Rối loạn lưỡng cực được phân loại thành:

  • Rối loạn lưỡng cực I: Được xác định bởi sự hiện diện của ít nhất một giai đoạn hưng cảm đầy đủ (gây ảnh hưởng các chức năng xã hội và chức năng nghề nghiệp bình thường) và thường là những giai đoạn trầm cảm
  • Rối loạn lưỡng cực II: Được xác định bởi sự có mặt của các giai đoạn trầm cảm chủ yếu với ít nhất một giai đoạn hưng cảm nhẹ nhưng không có các giai đoạn hưng cảm đầy đủ
  • Rối loạn lưỡng cực không biệt định: Các rối loạn với các đặc tính lưỡng cực rõ ràng không đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể cho các rối loạn lưỡng cực khác

Rối loạn lưỡng cực thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, 20, hoặc 30
Rối loạn lưỡng cực thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, 20, hoặc 30

Trong rối loạn khí sắc chu kỳ, bệnh nhân có thời gian kéo dài (> 2 năm) bao gồm cả giai đoạn hưng cảm và trầm cảm; tuy nhiên, các giai đoạn này không đáp ứng các tiêu chí cụ thể cho rối loạn lưỡng cực.

Nguyên nhân của hội chứng rối loạn lưỡng cực

Nguyên nhân chính xác của rối loạn lưỡng cực là không rõ. Di truyền có vai trò quan trọng. Cũng có bằng chứng về sự rối loạn serotonin và norepinephrin và dopamine.

Có thể có những yếu tố tâm lý xã hội. Các sự kiện căng thẳng cuộc sống thường liên quan đến sự phát triển ban đầu của các triệu chứng và sau đó trầm trọng, mặc dù nguyên nhân và kết quả chưa được thiết lập.

Một số loại thuốc có thể khởi phát bệnh trầm trọng ở một số bệnh nhân rối loạn lưỡng cực; những loại thuốc này bao gồm

  • Các thuốc cường giao cảm (ví dụ, cocain, amphetamin)
  • Rượu
  • Một số thuốc chống trầm cảm (ví dụ, thuốc ba vòng, MAOIs)

Triệu chứng và dấu hiệu nhận biết

Rối loạn lưỡng cực bắt đầu với một giai đoạn cấp tính các triệu chứng, theo sau là một chu kỳ lặp đi lặp lại của sự thuyên giảm và tái phát. Sự thuyên giảm thường hoàn toàn, nhưng nhiều bệnh nhân có các triệu chứng tồn dư, và một số thì khả năng làm việc ở nơi làm việc bị suy giảm trầm trọng. Các đợt tái phát là những giai đoạn riêng biệt của các triệu chứng cường độ cao hơn, đó là hưng cảm, trầm cảm, trầm cảm nhẹ, hoặc hỗn hợp các tính trạng trầm cảm và hưng cảm.

Các đợt tập kéo dài từ vài tuần đến 3 đến 6 tháng; giai đoạn trầm cảm thường kéo dài hơn giai đoạn hưng cảm.

Các chu kỳ – thời gian từ khi khởi phát của một giai đoạn đến thời điểm khởi phát giai đoạn tiếp theo – khác nhau giữa các bệnh nhân. Một số bệnh nhân có giai đoạn không thường xuyên, có lẽ chỉ một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có các dạng chu kỳ nhanh (thường được định nghĩa là ≥ 4 giai đoạn/năm). Chỉ có một ít bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết, một cực hay cực khác chiếm nổi trội ở một mức độ nào đó.

Bệnh nhân có thể toan hoặc thực hiện tự sát. Tỷ lệ tự sát mắc phải suốt đời ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được ước tính gấp ít nhất 15 lần so với dân số nói chung.

Hưng cảm

Một giai đoạn hưng cảm được định nghĩa là ≥ 1 tuần có khí sắc tăng, mở rộng hoặc dễ bị kích thích liên tục và tăng liên tục hoạt động có mục đích hoặc tăng năng lượng cộng thêm ≥ 3 triệu chứng:

  • Tăng tính tự trọng bản thân hoặc phóng đại
  • Giảm nhu cầu ngủ
  • Nói chuyện nhiều hơn bình thường
  • Tư duy phi tán hoặc tư duy dồn dập
  • Tính dễ bị phân tán tập trung
  • Tăng các hoạt động có mục đích
  • Tham gia quá nhiều vào các hoạt động có rủi ro cao (ví dụ, mua sắm nhiều, đầu tư kinh doanh dại dột)

Các bệnh nhân hưng cảm có thể là tham gia vào nhiều hoạt động vui vẻ, có nguy cơ cao một cách không mệt mỏi, quá mức, và xung động (ví dụ: đánh bạc, thể thao nguy hiểm, hành động phô trương tình dục) mà không cần phải hiểu rõ những nguy hại có thể xảy ra. Triệu chứng trầm trọng đến nỗi họ không thể hoạt động được các vai trò chính (nghề nghiệp, trường học, trông nhà). Những đầu tư không khôn ngoan, chi tiêu và các lựa chọn cá nhân khác có thể có những hậu quả không thể khắc phục được.

Bệnh nhân trong một giai đoạn hưng cảm có thể ăn mặc màu mè rực rõ và thường nói với tốc độ nhanh, không thể dừng. Bệnh nhân có thể tạo ra các mối liên quan (những ý nghĩ mới được khởi phát bởi bằng âm thanh thay vì ý nghĩa của từ). Dễ phân tâm, bệnh nhân có thể liên tục chuyển từ một chủ đề này sang chủ đề khác. Tuy nhiên, họ có xu hướng tin rằng họ đang ở trạng thái tinh thần tốt nhất của họ.

Bệnh nhân trong một giai đoạn hưng cảm có thể ăn mặc màu mè rực rõ
Bệnh nhân trong một giai đoạn hưng cảm khí sắc tăng, mở rộng hoặc dễ bị kích thích liên tục

Thiếu sự thấu hiểu và tăng khả năng hoạt động thường dẫn đến hành vi xâm phạm và có thể là một sự kết hợp nguy hiểm. Sự bất hòa giữa các cá nhân và có thể khiến bệnh nhân cảm thấy họ đang bị đối xử hoặc bị ngược đãi một cách bất công. Do đó, bệnh nhân có thể trở nên nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác. Tăng hoạt động tâm thần được bệnh nhân cảm nhận tư duy dồn dập và được quan sát là tư duy phi tán qua đánh giá của bác sĩ.

Hưng cảm loạn thần là một biểu hiện nặng hơn, với những triệu chứng loạn thần mà có thể khó phân biệt với tâm thần phân liệt. Bệnh nhân có những hoang tưởng phóng đại hoặc bị theo dõi (ví dụ, về việc là Chúa Giêsu hay bị theo dõi bởi FBI), thỉnh thoảng có ảo giác. Mức độ hoạt động tăng rõ rệt; bệnh nhân có thể phóng xe nhanh và la hét, chửi thề hay hát hò. Tăng tình trạng thiếu ổn định cảm xúc, thường tăng tính dễ bị kích thích. Mê sảng (hưng cảm mê sảng) có thể xuất hiện, với sự mất mát hoàn toàn của tư duy và hành vi.

Hưng cảm nhẹ

Một giai đoạn hưng cảm nhẹ là một biến thể ít nặng nề hơn của hưng cảm liên quan đến một giai đoạn riêng biệt kéo dài ≥ 4 ngày với hành vi khác biệt rõ rệt bản thân bệnh nhân lúc bình thường không trầm cảm và bao gồm ≥ 3 trong số các triệu chứng bổ sung được liệt kê ở trên dưới hưng cảm.

Trong giai đoạn hưng cảm nhẹ, khí sắc tươi sáng, nhu cầu ngủ giảm, và tâm thần vận động tăng nhanh. Đối với một số bệnh nhân, giai đoạn hưng cảm nhẹ được thích nghi bởi vì chúng tạo ra nhiều năng lượng, tăng tính sáng tạo, sự tự tin, và chức năng xã hội siêu thường. Nhiều người không muốn rời khỏi trạng thái vui tươi, hưng phấn. Một số hoạt động khá tốt, và phần lớn, hoạt động không bị suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, hưng cảm nhẹ biểu hiện như sự phân tán, dễ bị cáu gắt, và khí sắc bất ổn định, mà bệnh nhân và những người khác thấy không thích thú tình trạng đó.

Trầm cảm

Một giai đoạn trầm cảm có đặc điểm điển hình của trầm cảm chủ yếu; giai đoạn phải bao gồm ≥ 5 trong số những điều sau đây trong cùng thời gian 2 tuần, và một trong số đó phải là khí sắc trầm hoặc mất quan tâm hoặc thích thú:

  • Khí sắc trầm hầu hết trong ngày
  • Giảm sự quan tâm hoặc thích thú trong tất cả hoặc gần như tất cả các hoạt động trong hầu hết thời gian trong ngày
  • Tăng cân đáng kể (> 5%) hoặc giảm cân hoặc tăng khẩu vị
  • Mất ngủ (thường mất ngủ kiểu tỉnh giấc giữa đêm) hoặc chứng ngủ nhiều
  • Kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động được quan sát bởi người khác của người khác (không phải tự nhận xét)
  • Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
  • Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp
  • Suy giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung hoặc do dự thiếu quyết đính
  • Những suy nghĩ liên tục về cái chết hoặc tự sát, một nỗ lực tự sát, hay một kế hoạch tự sát cụ thể

Các đặc điểm loạn thần thường phổ biến ở trầm cảm lưỡng cực hơn trầm cảm đơn cực.

Các đặc điểm hỗn hợp

Một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ được xác định là có đặc điểm hỗn hợp nếu ≥ 3 triệu chứng trầm cảm có mặt trong hầu hết các ngày của giai đoạn. Tình trạng này thường rất khó chẩn đoán và có thể chuyển sang trạng thái chu kỳ liên tục; tiên lượng xấu hơn so với ở trạng thái hưng cảm hay hưng cảm nhẹ.

Nguy cơ tự sát trong các giai đoạn hỗn hợp đặc biệt cao.

Chẩn đoán hội chứng rối loạn lưỡng cực

  • Tiêu chuẩn lâm sàng (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Phiên bản thứ năm)
  • Thyroxin (T4) và mức TSH để loại trừ cường giáp
  • Loại trừ lạm dụng thuốc kích thích trên lâm sàng hoặc xét nghiệm máu hoặc nước tiểu

Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực được dựa trên việc xác định các triệu chứng của chứng hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ như được mô tả ở trên, cộng với một tiền sử của sự thuyên giảm và tái phát. Các triệu chứng phải đủ nghiêm trọng để làm giảm đáng kể chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp hoặc phải nhập viện để ngăn ngừa nguy hại cho bản thân hoặc người khác.

Một số bệnh nhân có triệu chứng trầm cảm có thể đã có trải nghiệm trước đây hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm nhưng không phản hồi về điều đó, trừ khi họ được đặt câu hỏi cụ thể. Đặt câu hỏi có kĩ năng có thể cho thấy các dấu hiệu hiện diện bệnh (ví dụ như chi tiêu quá mức, xung động phô trương tình dục, lạm dụng chất kích thích), mặc dù các thông tin đó có nhiều khả năng được cung cấp bởi người thân. Bảng kê có cấu trúc như Bảng câu hỏi về Rối loạn tâm trạng có thể có ích. Tất cả bệnh nhân phải được hỏi nhẹ nhàng nhưng trực tiếp về ý tưởng tự sát, kế hoạch, hoặc hành vi.

Chẩn đoán hội chứng rối loạn lưỡng cực
Chẩn đoán hội chứng rối loạn lưỡng cực

Triệu chứng tương tự hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ cấp tính có thể xảy ra do sử dụng chất kích thích hoặc các rối loạn thể chất như cường giáp hoặc là u tủy thượng thận. Bệnh nhân bị cường giáp thường có các triệu chứng và dấu hiệu thể chất khác, nhưng xét nghiệm chức năng tuyến giáp (T4 và TSH) là một xét nghiệm đánh giá hợp lý cho bệnh nhân mới.

Các bệnh nhân có u tủy thượng thận có tăng huyết áp rõ rệt; nếu không, xét nghiệm đánh giá không được chỉ định. Các rối loạn khác thường ít gây triệu chứng hưng cảm, nhưng các triệu chứng trầm cảm có thể xảy ra trong một số rối loạn (xem bảng: Một vài nguyên nhân gây trầm cảm và hưng cảm).

Việc xem xét việc sử dụng chất gây nghiện (đặc biệt là amphetamin và cocain) và xét nghiệm chất trong máu hoặc nước tiểu có thể giúp xác định căn nguyên từ chất. Tuy nhiên, bởi vì sử dụng chất có thể thuần túy gây khởi phát một giai đoạn ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực, việc tìm kiếm các triệu chứng (hưng cảm hoặc trầm cảm) không liên quan đến sử dụng ma túy là rất quan trọng.

Một số bệnh nhân rối loạn phân liệt cảm xúc có các triệu chứng hưng cảm, nhưng những bệnh nhân như vậy có thể không trở lại bình thường giữa các đợt.

Bệnh nhân rối loạn lưỡng cực cũng có thể bị rối loạn lo âu (ví dụ:, ám ảnh sợ xã hội, các cơn hoảng sợ, rối loạn ám ảnh nghi thức), có thể gây nhầm lẫn cho chẩn đoán.

Điều trị hội chứng rối loạn lưỡng cực

  • Các thuốc chỉnh khí sắc (ví dụ lithium, một số thuốc chống co giật), thuốc chống loạn thần thế hệ 2, hoặc cả hai
  • Hỗ trợ và trị liệu tâm lý
  • Điều trị rối loạn lưỡng cực thường có 3 pha:
  • Cấp tính: Để ổn định và kiểm soát biểu hiện ban đầu, đôi khi là những tình trạng nghiêm trọng
  • Tiếp tục: Để đạt được sự thuyên giảm hoàn toàn
  • Duy trì hoặc dự phòng: Giữ bệnh nhân trong trạng thái thuyên giảm

Mặc dù hầu hết các bệnh nhân hưng cảm nhẹ có thể được điều trị như bệnh nhân ngoại trú, nhưng tình trạng hưng cảm nghiêm trọng hoặc trầm cảm thường đòi hỏi quản lý nội trú.

Điều trị bằng thuốc cho rối loạn lưỡng cực

Thuốc cho rối loạn lưỡng cực bao gồm

  • Thuốc chỉnh khí sắc: Lithium và thuốc chống động kinh, đặc biệt là valproat, carbamazepin, và lamotrigin
  • Thuốc chống loạn thần thế hệ thứ 2: Aripiprazol, lurasidon, olanzapin, quetiapin, risperidon và ziprasidon.

Các loại thuốc này được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với tất cả các pha điều trị, mặc dù ở liều lượng khác nhau.

Lựa chọn điều trị rối loạn lưỡng cực có thể là khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn nên dựa trên những gì đã có hiệu quả và được dung nạp tốt ở một bệnh nhân nhất định. Nếu bệnh nhân trước đây chưa được sử dụng thuốc để điều trị rối loạn lưỡng cực (hoặc không rõ tiền sử dùng thuốc), thì sự lựa chọn dựa trên tiền sử bệnh của bệnh nhân (xem xét các tác dụng phụ của thuốc ổn định tâm trạng cụ thể) và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.

Thuốc chống trầm cảm cụ thể (ví dụ, SSRIs) đôi khi được bổ sung điều trị cho trầm cảm nặng, nhưng hiệu quả của chúng còn tranh cãi; chúng không được khuyến cáo là liệu pháp duy nhất cho các giai đoạn trầm cảm.

Các phương pháp điều trị khác

Liệu pháp sốc điện (ECT) đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm kháng trị và cũng có hiệu quả đối với hưng cảm.

Liệu pháp sốc điện (ECT) đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm
Liệu pháp sốc điện (ECT) đôi khi được sử dụng để điều trị trầm cảm

Có thể bạn quan tâm:

Trị liệu ánh sáng có thể hữu ích trong điều trị rối loạn lưỡng cực I hoặc rối lưỡng cực II theo mùa (với trầm cảm vào mùa thu – mùa hè và hưng cảm nhẹ mùa xuân – mùa hè). Nó được sử dụng hữu ích nhất như điều trị bổ sung.

Giáo dục và trị liệu tâm lý

Tận dụng sự ủng hộ của người thân là điều thiết yếu để dự phòng ngăn ngừa những giai đoạn chủ yếu.

Trị liệu nhóm thường được khuyên dùng cho bệnh nhân và bạn đời (bạn tình); ở đó, họ tìm hiểu về rối loạn lưỡng cực, di chứng xã hội của nó, và vai trò trung tâm của thuốc chỉnh khí sắc trong điều trị.

Trị liệu cá nhân có thể giúp bệnh nhân đối phó tốt hơn với các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và điều chỉnh theo cách mới để tự xác định bản thân.

Lời kết

Những bệnh nhân, đặc biệt là những người có hội chứng rối loạn lưỡng cực II, có thể không tuân thủ các phác đồ điều trị bằng thuốc chỉnh khí sắc bởi vì họ tin rằng những thuốc này làm cho họ ít cảnh giác và sáng tạo. Bác sĩ có thể giải thích rằng: sự giảm sáng tạo thì không bình thường một cách tương đối nhưng thuốc chỉnh khí sắc thường sẽ đem lại nhiều cơ hội thực hiện hoạt động giữa các cá nhân, học thuật, chuyên môn và nghệ thuật.

Đọc nhiều nhất