Bệnh quai bị dễ bị nhầm lẫn với bệnh lý tại tuyến nước bọt. Bệnh quai bị có thể dẫn đến vô sinh còn bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần có thể gây biến dạng khuôn mặt. Cùng xem cách phân biệt quai bị và viêm tuyến nước bọt dưới đây để có cách khắc phục
1. Viêm tuyến nước bọt và quai bị khác nhau như thế nào?
Viêm tuyến nước bọt và quai bị là 2 bệnh đều có triệu chứng biểu hiện ở tuyến nước bọt, thường gặp nhất là ở tuyến nước bọt mang tai. Cả hai bệnh đều có biểu hiện viêm tuyến nước bọt mang tai gần giống nhau, tuy nhiên hậu quả của 2 bệnh gây ra rất khác nhau.
Đặc biệt bệnh quai bị có thể dẫn đến vô sinh còn bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần có thể gây biến dạng khuôn mặt. Vì vậy, các bậc phụ huynh cần phân biệt rõ bệnh viêm tuyến nước bọt và quai bị để có hướng xử trí và theo dõi đúng đắn.
Nếu tuyến nước bọt mang tai bị viêm do tác nhân là virus quai bị thì được coi là bệnh quai bị, tuy nhiên tỷ lệ viêm tuyến mang tai do virus quai bị chỉ chiếm 24% trong tổng số các nguyên nhân gây bệnh tại tuyến này. Viêm tuyến nước bọt và quai bị là hai bệnh cũng nằm ở tuyến mang tai nhưng nguyên nhân gây bệnh khác nhau và việc điều trị cũng khác nhau.
Thử sức cùng Trắc nghiệm: Bạn có phân biệt được chính xác cảm lạnh và cúm mùa?
Cảm cúm và cảm lạnh là hai khái niệm mà chúng ta thường đánh đồng nó giống nhau, không phân biệt rõ ràng. Dưới đây là một số câu hỏi trắc nghiệm, giúp bạn có thêm những kiến thức phân biệt cảm lạnh và cảm cúm. Từ đó, có những biện pháp điều trị bệnh phù hợp.
2. Bệnh quai bị
Bệnh quai bị do virus quai bị thuộc nhóm Paramyxovirus gây nên. Bệnh lây truyền theo đường hô hấp, qua các bụi nước của hơi thở, truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành. Bệnh quai bị rất phổ biến, có đặc điểm dịch tễ rõ ràng, thường phát bệnh nhiều nhất vào mùa xuân,đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, có khi bùng lên thành dịch ở những nơi tập trung đông người (nhà trẻ, trường học).
2.1. Biểu hiện của bệnh quai bị
Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14 – 24 ngày (giai đoạn ủ bệnh đã có thể lây lan), người bệnh có biểu hiện sốt cao từ 38 – 39 độ C, đau đầu, chán ăn, cảm giác khó nuốt, khó nói chuyện, đau nhức các khớp xương.
Vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, lan ra vùng trước tai và lan xuống dưới hàm. đẩy tai lên trên và ra ngoài, có khi sưng lan đến ngực gây phù trước xương ức.
Da ở vùng sưng có màu sắc bình thường, không bị nóng đỏ và có tính đàn hồi. Bệnh quai bị thường sưng cả 2 bên tuyến nước bọt mang tai, có khi chỉ sưng 1 bên, sưng 2 bên so với sưng 1 bên có tỷ lệ là 6/1. Tuyến mang tai trong bệnh quai bị thường sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng từ từ trong khoảng 1 tuần. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến mang tai có thể không sưng lên cùng lúc, tuyến 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng.
Song song với các tổn thương ở tuyến nước bọt, virus quai bị còn làm tổn thương ở ngoài tuyến nước bọt gây viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi kẽ, viêm đa khớp hoặc biểu hiện ở các cơ quan khác như tuyến lệ, tuyến ức, tuyến giáp, tuyến vú, buồng trứng. Các tổn thương này thường có các triệu chứng không điển hình, thường diễn biến lành tính.
2.2. Bệnh quai có thể dẫn đến biến chứng gì?
- Viêm tinh hoàn: đây là biến chứng thường gặp ở tuổi dậy thì, hiếm gặp ở trẻ em dưới 2 tuổi và ở người lớn trên 40 tuổi. Viêm tinh hoàn thường xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai từ 1 – 2 tuần. Biểu hiện đau tinh hoàn lúc sắp sưng, sau đó tinh hoàn sưng to gấp 3 – 4 lần so với bình thường. Thường chỉ sưng 1 bên nhưng cũng có thể sưng 2 bên, khoảng 2 tuần hết sưng. Sau 2 tháng mới có thể đánh giá được tinh hoàn có bị teo hay không. Tỷ lệ teo tinh hoàn gặp phải là 30 – 40%, nếu bị teo tinh hoàn cả 2 bên thì khả năng vô sinh rất cao.
- Viêm buồng trứng: chiếm 7% trường hợp mắc bệnh quai bị ở tuổi sau dậy thì (hiếm khi gây vô sinh). Nếu nhiễm bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: 3 tháng đầu có khả năng gây dị dạng, sảy thai… vào 3 tháng cuối có thể gây tăng nguy cơ thai chết lưu hoặc sinh non.
2.3. Điều trị quai bị
Không có liệu pháp kháng vi-rút đặc hiệu để điều trị bệnh quai bị. Xử trí bằng cách chăm sóc hỗ trợ và có thể bao gồm sử dụng thuốc giảm đau / hạ sốt như acetaminophen. Khó chịu ở tai có thể được kiểm soát bằng cách chườm ấm hoặc chườm lạnh. Viêm tinh hoàn có thể được kiểm soát bằng các chất chống viêm không steroid, hỗ trợ điều trị viêm tinh hoàn và chườm lạnh.
Nên cách ly bệnh nhân tối thiểu 2 tuần khi mắc bệnh quai bị, bệnh nhân cần nghỉ ngơi, nằm yên, hạn chế đi lại, đặc biệt là đối với các bệnh nhân là thanh niên hay bệnh đang trong thời gian sốt và sưng tuyến nước bọt (4 – 6 ngày đầu). Trường hợp bệnh nhân bị viêm tinh hoàn cần mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau. Nếu mắc quai bị ở tuổi vị thành niên cần lưu ý điều trị sớm. Không có liệu pháp kháng vi-rút cụ thể để điều trị bệnh quai bị.
3. Viêm tuyến nước bọt mang tai bệnh học
Viêm tuyến nước bọt khiến trẻ bị đau và sốt
Bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần do các tác nhân gây bệnh như: Staphylococcus aureus, Parainfluenza, coxsackie… gây nên. Đôi khi cũng gặp viêm tuyến nước bọt mang tai do sỏi, làm tắc ống dẫn tuyến và gây viêm. Bệnh thường chỉ gây ra các tổn thương tại tuyến nước bọt, diễn biến lành tính, đa số tự khỏi hoặc có trường hợp chuyển sang viêm mạn tính phì đại tuyến.
3.1. Viêm tuyến nước bọt biểu hiện như thế nào?
Vùng tuyến nước bọt mang tai sưng to, sưng lan rộng ra xung quanh tuyến, da ở vùng tuyến bị sưng có biểu hiện tấy đỏ, đau, nói và nuốt đều rất đau, có hạch viêm phản ứng ở vị trí góc hàm hoặc sau tai cùng bên. Sốt từ 38 – 39 độ C, ấn vào vùng tuyến mang tai thấy có mủ chảy ra ở miệng ống Stenon.
Viêm tuyến nước bọt mang tai do sỏi thường bị một bên, hay tái phát. Bệnh nhân khi nhìn thấy đồ chua hoặc trước mỗi bữa ăn ngon sẽ đau tức vùng tuyến mang tai, đồng thời nước bọt tăng tiết trong miệng.
Viêm tuyến nước bọt mang tai do vi khuẩn hay virus khác cũng hay biểu hiện ở một bên. Bệnh xuất hiện sau: viêm amidan, viêm lợi, giảm hay mất bài tiết nước bọt sau thủ thuật, sau đợt điều trị an thần kinh hoặc tăng năng giáp, giảm khả năng miễn dịch, dùng thuốc giảm miễn dịch, viêm tụy hoại tử, chảy máu… Nhiều trường hợp xuất hiện sau phẫu thuật đường tiêu hóa hoặc sau phẫu thuật ghép tạng, viêm tuyến mang tai có thể xảy ra sau bệnh mèo cào. Viêm tuyến nước bọt mang tai có sưng đau nhưng ấn vẫn mềm, vùng da bao quanh tuyến nhẵn.
Viêm tuyến nước bọt cấp tính ở trẻ: nếu kháng thể của mẹ bị khiếm khuyết, trẻ sơ sinh sẽ mắc viêm tuyến nước bọt mang tai cấp 1 bên hoặc 2 bên.
3.2. Viêm tuyến nước bọt có biến chứng không?
Đối với bệnh viêm tuyến nước bọt mang tai đơn thuần thường không gây ra tổn thương ngoài tuyến nước bọt. Bệnh có tính chất đơn lẻ, thường xuất hiện khi có viêm nhiễm khác ở vùng miệng và mũi họng. Bệnh không lây lan thành dịch, có thể gặp ở bất cứ lứa tuổi nào và không cùng lúc nhiều người mắc.